Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (Số 52/2014/QH13)
Cập nhập: 4/24/2020 10:54:14 AM - Công ty luật Dragon
Công ty Luật Hà Nội cung cấp toàn văn Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Số hiệu: | 52/2014/QH13 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Sinh Hùng |
Ngày ban hành: | 19/06/2014 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2015 |
Ngày công báo: | 16/07/2014 | Số công báo: | Từ số 681 đến số 682 |
Tình trạng: | Còn hiệu lực |
Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đã được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật này có ba điểm mới quan trọng:
1. Nâng độ tuổi kết hôn của phụ nữ lên từ 17 tuổi trở lên thành 18 tuổi trở lên. Điều này có nghĩa là phụ nữ chỉ có thể kết hôn khi đủ 18 tuổi trở lên, trong khi đàn ông phải đủ 20 tuổi trở lên.
2. Cho phép mang thai hộ cho mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, để thực hiện việc mang thai hộ, cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện đối với cả người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng với bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.
3. Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng dựa trên thỏa thuận. Thỏa thuận về chế độ tài sản phải được lập bằng văn bản, có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn.
Ngoài ra, Luật hôn nhân gia đình 2014 cũng điều chỉnh một số vấn đề khác như sau:
- Áp dụng tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình: Tập quán chỉ được áp dụng trong trường hợp pháp luật không có quy định và hai bên không có thỏa thuận, nhưng không được vi phạm các điều cấm tại Luật này.
- Vẫn không thừa nhận hôn nhân đồng tính.
- Quy định cách giải quyết về con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Không tính thời gian sống chung như vợ chồng trước khi đăng ký kết hôn vào thời kỳ hôn nhân.
- Luật cũng quy định về con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân sẽ được coi là con do người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân.
Nếu cha mẹ không thừa nhận con, phải có chứng cứ và cần được Toà án xác định. (Điều này đã được ghi nhận tại Nghị định 70/2001/NĐ-CP).